Những chiếc trong lớp Lớp tàu khu trục G và H

Hải quân Hoàng gia Anh

TênĐặt lườnHạ thủyHoàn tấtSố phận
Lớp G
Gallant15 tháng 9 năm 193426 tháng 9 năm 193525 tháng 2 năm 1936Tổn thất do trúng mìn gần Malta, 20 tháng 1 năm 1941
Garland22 tháng 8 năm 193424 tháng 10 năm 19353 tháng 3 năm 1936Chuyển cho Hải quân Ba Lan như là chiếc ORP Garland năm 1940, chuyển cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan sau chiến tranh và bị tháo dỡ năm 1964
Gipsy4 tháng 9 năm 19347 tháng 11 năm 193522 tháng 2 năm 1936Đắm do trúng mìn gần Harwich, 21 tháng 11 năm 1939
Glowworm15 tháng 8 năm 193422 tháng 7 năm 193522 tháng 1 năm 1936Đắm do đụng độ với tàu tuần dương Đức Admiral Hipper, 8 tháng 4 năm 1940
Grafton30 tháng 8 năm 193418 tháng 9 năm 193520 tháng 3 năm 1936Bị tàu ngầm Đức U-62 đánh chìm, 29 tháng 5 năm 1940
Grenade3 tháng 10 năm 193412 tháng 11 năm 193528 tháng 3 năm 1936Bị không kích đánh chìm trong trận Dunkirk, 29 tháng 5 năm 1940
Grenville (soái hạm khu trục)29 tháng 9 năm 193415 tháng 8 năm 19351 tháng 7 năm 1936Đắm do trúng mìn, 19 tháng 1 năm 1940.
Greyhound20 tháng 9 năm 193415 tháng 8 năm 19351 tháng 2 năm 1936Bị máy bay ném bom bổ nhào Đức đánh chìm trong trận Crete, 22 tháng 5 năm 1941
Griffin20 tháng 9 năm 193415 tháng 8 năm 19356 tháng 3 năm 1936Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada năm 1943 như là chiếc HMCS Ottawa, tháo dỡ năm 1946
Lớp H
Hardy (soái hạm khu trục)30 tháng 5 năm 19357 tháng 4 năm 193611 tháng 12 năm 1936Bị đánh đắm do hải pháo của tàu khu trục Đức Georg Thiele trong trận Narvik thứ nhất, 10 tháng 4 năm 1940
Hasty15 tháng 4 năm 19355 tháng 5 năm 193611 tháng 11 năm 1936Trúng ngư lôi của xuồng phóng lôi Đức S-55, 14 tháng 6 năm 1942; bị Hotspur đánh đắm gần Derna, 15 tháng 6 năm 1942
Havock15 tháng 5 năm 19357 tháng 7 năm 193616 tháng 1 năm 1937Mắc cạn gần Kelibia, Tunisia và bị đánh đắm, 6 tháng 4 năm 1942
Hereward28 tháng 2 năm 193510 tháng 3 năm 19369 tháng 12 năm 1936Bị máy bay ném bom bổ nhào Đức đánh chìm gần Plaka, Crete, 29 tháng 5 năm 1941
Hero28 tháng 2 năm 193510 tháng 3 năm 193621 tháng 10 năm 1936Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada năm 1943 như là chiếc HMCS Chaudiere, tháo dỡ năm 1945
Hostile27 tháng 2 năm 193524 tháng 1 năm 193610 tháng 9 năm 1936Hư hại do trúng mìn và bị Hero đánh đắm, 23 tháng 8 năm 1940
Hotspur27 tháng 2 năm 193523 tháng 3 năm 193629 tháng 12 năm 1936Bán cho Hải quân Cộng hòa Dominica, 1949
Hunter27 tháng 3 năm 193525 tháng 2 năm 193630 tháng 9 năm 1936Bị tàu khu trục Đức đánh đắm trong trận Narvik, 10 tháng 4 năm 1940
Hyperion27 tháng 3 năm 19358 tháng 4 năm 19363 tháng 12 năm 1936Đắm do trúng mìn gần Pantelleria, 22 tháng 12 năm 1940
Lớp Havant
Harvester (Handy, Jurua)3 tháng 6 năm 193829 tháng 9 năm 193923 tháng 5 năm 1940Bị tàu ngầm Đức U-432 đánh chìm, 11 tháng 3 năm 1943.
Havant (Javary)30 tháng 3 năm 193817 tháng 7 năm 193919 tháng 12 năm 1939Bị hư hại do không kích trong trận Dunkirk và bị Saltash đánh đắm, 1 tháng 6 năm 1940
Havelock (Jutahy)30 tháng 3 năm 193816 tháng 10 năm 193910 tháng 2 năm 1940Bị tháo dỡ 1946
Hesperus (Hearty, Juruena)6 tháng 7 năm 19381 tháng 8 năm 193922 tháng 1 năm 1940Bị tháo dỡ 1946
Highlander (Juguaribe)28 tháng 9 năm 193819 tháng 10 năm 1939.18 tháng 3 năm 1940Bị tháo dỡ 1947
Hurricane (Japarua)30 tháng 6 năm 193829 tháng 9 năm 193921 tháng 6 năm 1940Bị tàu ngầm Đức U-415 đánh chìm, 24 tháng 12 năm 1943

Hải quân Argentine

Bảy chiếc tàu khu trục có cùng đặc tính kỹ thuật với lớp G và H đã được chế tạo cho Hải quân Argentine như là lớp Buenos Aires; chúng được chế tạo bởi các hãng Vickers Armstrongs (Barrow) ở Cammell Laird và John Brown & CompanyClydebank, và được bàn giao vào năm 1938.

Hải quân Brasil

Brasil đặt mua của Anh sáu chiếc lớp Jarua vào năm 1938. Những chiếc này bị Anh mua lại khi chiến tranh nổ ra vào năm 1939 và đổi tên thành lớp Havant như được mô tả bên trên. Để thay thế, Brasil quyết định tự sản xuất tàu khu trục, lớp Acre, tại xưởng tàu Ilha das Cobras, Rio de Janeiro. Thiết kế được dựa trên bản vẽ lớp H do Anh cung cấp, nhưng với vũ khí và động cơ do Hoa Kỳ sản xuất. Cho dù được đặt lườn từ năm 1940, sáu chiếc thuộc lớp này chỉ hoàn tất vào năm 19491951.[6]

Hải quân Hoàng gia Hy Lạp

Hai chiếc thuộc một phiên bản cải biến của lớp G đã được hãng Yarrow chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Hy Lạp. Chúng được trang bị hải pháo 12,7 cm SK C/34pháo phòng không 37 mm do Đức chế tạo. Việc trang bị vũ khí được thực hiện tại Hy Lạp, vì phía Đức từ chối vận chuyển kiểu vũ khí này sang Anh.

  • Tàu khu trục Vasilefs Georgios, được đặt tên theo Vua George I, đã phục vụ cho Hải quân Hoàng gia Hy Lạp trong cuộc Chiến tranh Hy Lạp-Ý. Bị máy bay Đức gây hư hại, nó xoay xở đi đến được Xưởng hải quân Salamis và được đưa vào ụ tàu để sửa chữa, nhưng tiếp tục bị hư hại thêm do các cuộc không kích của Đức, nên cuối cùng bị đánh đắm để tránh bị chiếm giữ. Người Đức đã trục vớt nó, sửa chữa, và cho hoạt động cùng Hải quân Đức Quốc xã như là chiếc Hermes (ZG3) vào ngày 21 tháng 3 năm 1942. Hermes bị hư hại nặng ngoài khơi mũi Bon vào ngày 30 tháng 4 năm 1943, và bị đánh đắm vào ngày 7 tháng 5 năm 1943.
  • Tàu khu trục Vasilissa Olga, được đặt tên theo Hoàng hậu Olga, cũng từng phục vụ trong cuộc Chiến tranh Hy Lạp-Ý. Nó cùng các tàu chiến khác đào thoát được đến Alexandria vào tháng 5 năm 1941 và gia nhập lực lượng Đồng Minh. Nó bị mất trong chiến tranh do không kích của máy bay Đức đang khi thả neo trong vịnh Lakki, Leros vào ngày 26 tháng 9 năm 1943.

Hai chiếc khác, Vasilefs Konstantinos và Vasilissa Sofia, được đặt tên theo Vua Konstantinos I và Hoàng hậu Sofia tương ứng, được dự định chế tạo ngay tại Hy Lạp, nhưng công việc bị ngừng lại do Thế Chiến II nổ ra.